VIỆT NAM ĐỘC LẬP VỀ VĂN HÓA.
VĂN HÓA VIỆT BẢN SAO VĂN HÓA TRUNG HOA HAY LÀ SỰ DUNG HỢP CỦA CÁC NỀN VĂN HÓA TRONG MỘT NỀN VĂN HÓA
CHỦ ĐỀ: Giao lưu và
tiếp xúc văn hóa
Có lẽ, trên
lãnh thổ nước ta chưa bao giờ có sự du nhập về văn hóa lớn đến như vậy. Một dân
tộc từ trước đến giờ luôn dè dặt với cái mới thì hôm nay, muôn màu văn hóa có mặt
trên nước ta và ở các nước khác áo dài được người ta trân trọng, bánh mì kẹp kiểu
Việt Nam được ưu chuộng. Ngày nay, trên một thế giới vô cực, văn hóa trở
thành hàng hóa, trở thành công cụ truyền
thông, người ta biết đến 1 đất nước xa xôi nào đó chỉ cần lướt đôi tay trên bàn
phím. Dường như cái tưởng chừng bất biến, cái tưởng là cốt lõi không thể đổi dời,
đặt trong xã hội mở, quan niệm mở nó cũng giao thoa với nhau, với các nền văn
hóa khác.
Văn hóa theo
quan niệm của người phương Đông là : “Văn trị giáo hóa” còn phương tây với thuật
ngữ Cultural có nghĩa là trồng trọt tinh thần. Văn hóa vốn là một thuật ngữ trừu
tượng nhưng hầu hết trong 400 định nghĩa về nó trên thế giới hầu hết đều liên
quan đến cốt lõi tinh thần của con người. Giao lưu và tiếp xúc văn hóa là thuật
ngữ mới xuất hiện ở Việt Nam được dịch từ từ acculturation. Nó được định nghĩa
là sự vận động thường xuyên của xã hội , gắn bó với tiến hóa xã hội nhưng cũng
gắn với sự phát triển của văn hóa, là sự vận động thường xuyên của văn hóa. Ở
nhiều nước trên thế giới định nghĩa này được sử dụng với nhiều thuật ngữ khác
nhau, cách hiểu khác nhau ví dụ như ở Pháp: Interpénétration des civilisation
(sự hòa nhập giữa các nền văn minh) hay ở Anh cultural change (trao đổi văn
hóa)…
Cơ tầng văn hóa Việt Nam hay cái gốc của văn hóa Việt Nam
chính là văn hóa Đông Nam Á. Trước khi bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và
văn hóa Ấn Độ, văn hóa phương Tây, văn hóa Việt Nam là nền văn hóa hòa chung với
văn hóa Đông Nam Á. Tổ tiên ta những người Mongoloid đã sống trên đại lục châu
Á, và cả trên vùng đất Đông Nam Á yêu quý của chúng ta. Suốt chiều dài lịch sử
rất, rất lâu họ sinh sống và sáng tạo ra văn hóa – một nền văn hóa riêng chỉ có
ở vùng đông nam châu Á này. Cùng với sự tiến hóa của vạn vật trong đó có cả
loài người tổ tiên ta đã biết trồng trọt từ rất sớm. Có thể khí hậu xích đạo đã
cho chúng ta những ưu đãi tuyệt vời từ thiên nhiên. Bắt đầu là săn bắn, trồng
rau củ đến những nương lúa ngày nay. Ngay từ thế kỷ VI TCN, những người Đông
Nam Á đã biết trồng lúa nương, lúa nước… tùy theo địa hình. Một học giả phương
Tây từng nói: “Đông Nam Á chẳng có gì sáng tạo đáng kể… ngoài trống đồng và có
thể kể thêm cái nơm úp cá” có vẻ điều đó thật phiến diện. Thử nhìn xem, trên 1
vùng Đông Nam Á rộng lớn trải dài từ phía Nam sông Dương Tử đến các đảo xa khơi
bất cứ nơi nào có thể, cây lúa đều mọc, đều sinh sôi, đều phát triển. Nền văn
minh rực rỡ với kỹ thuật canh tác lúa nước đạt đến trình độ cao đó là sản phẩm
của nền văn hóa Đông Nam Á. Nó được sản sinh và bồi đắp qua hàng ngàn thế hệ nối
tiếp nhau .Ngày nay, Đông Nam Á là vùng cung cấp lúa gạo lớn nhất hành tinh với
sản lượng lớn nhất, chất lượng cao nhất góp phần to lớn vào an ninh lương thực
thế giới. Điều đó không phải là sáng tạo của người ĐNA cống hiến vào nền văn
minh chung của nhân loại sao?. Ở Đông Nam Á, người phụ nữ được đề cao. Nhiều
nhà nghiên cứu đã khá bất ngờ khi ở VN người phụ nữ phong kiến tuy bị chịu thiệt
thòi nhưng họ vẫn là “tướng nhỏ” của gia đình. Cái ảnh hưởng của phương Bắc
trong chiến lược dài hơi “đồng hóa người Việt” chỉ làm cho văn hóa VN phủ một lớp
“vỏ Tàu” thôi. Đời sống tinh thần của người ĐNA là tín ngưỡng thờ cúng thiên
nhiên như: thần đất, thần nước, thần lúa… điều này thực ra không có gì khó hiểu
cả, trước đây, khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển chúng ta phụ thuộc hoàn
toàn vào thiên nhiên. Để tìm thấy sự bình an, người ta sinh ra tôn giáo, tín
ngưỡng. Việc thờ các vị thiên thần giống như khát vọng được sinh tồn, ước mơ được
mưa thuận gió hòa, được bội thu… Ở ĐNA tổ tiên cũng được thờ cúng điều này thể
hiện sự coi trọng những người đã khuất. Cũng giống như hầu hết các nước ĐNA, ở
VN cư dân Việt cổ kiểu tư duy lưỡng phân như: thiên – địa (có trời ắt có đất),
đực – cái, âm – dương… những tín hiệu văn hóa đó có mặt trên các sản phẩm văn
hóa như họa tiết trên váy, trống đồng, điêu khắc trên đá… Nếu như phương Tây một
từ có thể có nhiều âm tiết nhưng ở hệ ngôn ngữ ĐNA lại là hệ ngôn ngữ đơn âm. Khu vực ĐNA được đánh giá là khu vưc có địa
hình khá phức tạp gồm cả địa hình núi đá, đồng bằng, và vùng biển. nền văn hóa
đồng bằng tuy có sau nhưng lại mang vai trò quyết định bởi nó phát triển phổ biến,
mạnh mẽ và rộng rãi hơn. Nằm trên đường giao thoa giữa lục địa và biển đảo, về
cơ bản, nền văn hóa VN có đầy đủ những yếu tố của vh ĐNA: cả ĐNA lục địa lẫn
ĐNA hải đảo, cả vùng núi lẫn vùng biển.

Dường như chỉ nhìn thoáng qua người ta có thể thấy sự ảnh hưởng
khủng khiếp của văn hóa Trung Hoa ở VN. Hầu hết tiếng Việt đều là âm Hán – Việt,văn
hóa, tôn giáo, tư duy gần sát với Trung Quốc. Có nhiều khi người ta xem văn hóa
Việt Nam là “bản sao” của văn hóa Trung Hoa. Nhưng có phải là người TQ đã thành
công trong tiến trình đồng hóa người Việt hay không? Lịch sử đã trả lời câu hỏi
đó thật rõ ràng, thật đúng đắn. Đó là “không”. Ngay trong buổi hồng hoang, cư
dân Bách Việt đã sinh sống trên vùng Hoa Nam – Trung Quốc, hay nói cách khác
vùng Đông – Nam TQ là lãnh thổ của người Việt. Trong một thời gian rất dài, sự
vận động xuống phía Nam của người Hoa dồn cư dân Bách Việt xuống lãnh thổ Việt
Nam ngày nay. Văn hóa Trung Hoa cũng từ đó mà bắt đầu có sự giao lưu tiếp biến
với người Việt. Thông thường người ta chia ra làm 2 loại hình giao lưu văn hóa
đó là: giao lưu cưỡng bức và không cưỡng bức. Có lẽ với người Việt văn hóa TH
giao lưu cưỡng bức nhiều hơn. Một phép liệt kê đơn giản: Từ thuở Hùng Vương giặc
Ân, quân Triệu Đà đã xâm lược nước ta, sau đó là nhà Hán, Tống, Đường, Nguyên,
Minh, Thanh, quân Tưởng Giới Thạch, chiến tranh biên giới 1979, 1988… có lẽ
không 1 triều đại nào, không một chế độ nào không nuôi dòng máu khát thèm vùng
đất phía Nam và muôn đời nay, chúng ta vẫn là “khúc xương khó nuốt” cho “người
bạn” phương Bắc. Chắc chắn chẳng ai quên mối thù ngàn năm nô dịch của đế chế quân chủ phương Bắc. Từ đó, văn hóa TQ được
du nhập mạnh mẽ vào VN. Suốt 1 thiên niên kỉ Hán hóa, chữ viết mới, tôn giáo mới
vào VN. Nhưng theo những cứ liệu lịch sử thu được, ở thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
1 (khoảng 200 năm đầu) chính sách đô hộ còn lỏng lẻo, chúng chỉ bị siết chặt
khi cuộc khởi nghĩa 2 bà Trưng nổi lên, giáng một đòn mạnh vào chính quyền đô hộ.
và cũng từ đây, sự giao lưu văn hóa một cách cưỡng bức diễn ra mạnh mẽ mãnh liệt
hơn bao giờ hết. Chưa có một văn bản nào cho thấy chữ viết của người Việt trước
thời kỳ Bắc thuộc. Chữ viết – phương tiện quan trọng nhất được ra đời. Trong suốt
thời kỳ phong kiến chúng ta sử dụng chữ viết là chữ Hán. Song song với xu hướng
Hán hóa là xu hướng chống Hán hóa. Và cứ thế, chữ Nôm ra đời dựa theo chữ Hán
nhưng viết theo âm người Việt. Chữ Nôm không được dùng phổ biến chỉ đến thể kỷ
XV dòng văn học bằng chữ Nôm mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ với các tác phẩm của
Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm và không thể không kể đến tuyệt đỉnh của văn học
chữ Nôm Truyện Kiều (Nguyễn Du) tác phẩm này không còn hạn chế ở phạm vi lãnh
thổ Việt Nam mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng khác trên thế giới. Điều này
minh chứng cho nghệ thuật, ngôn ngữ dân tộc không còn thua kém gì ngôn ngữ các
nước khác. Nhờ chiến tranh mà tôn giáo cũng “theo chân” kẻ xâm lược vào Việt
Nam. Tiêu biểu là phật giáo đại thừa. Ở thời nhà Lý, phật giáo đại thừa ảnh hưởng
vô cùng lớn đến chính trị và xã hội. Rất nhiều ngôi chùa được dựng lên, phật
giáo trở thành quốc giáo của người Việt bấy giờ. Hơn nữa rất nhiều người dân
theo phật giáo. Đi song hành với phật giáo, nho giáo cũng du nhập vào Việt Nam,
ban đầu là cưỡng bức. Nho giáo khuyên răn con người hướng đến nhân nghĩa đạo đức,
hướng đến Trung – Hiếu – Lễ - Nghĩa – Tín, hướng con người đến khuôn phép “quốc
có quốc pháp, gia có gia quy”. Với sự thẩm thấu dần dần, người Việt tiếp nhận
nho giáo một cách tự nguyện.
Đến thế kỷ XV, nho
giáo trở thành tư tưởng chính thống của người Việt, ăn sâu vào lối sống nếp
nghĩ cho đến tận bây giờ. Từ 1 tôn giáo bị ép buộc tiếp nhận, thế kỷ thứ XI, lần
đầu tiên chúng ta có 1 kỳ thi nho học theo mô hình của Trung Quốc với 3 kỳ thi
Hương – Hội – Đình. Nho giáo thiết lập kỷ cương và điều hành xã hội bằng giáo dục.
Tuy nhiên hạn chế của giáo dục nho học là chỉ chú trọng vào lý thuyết không có
thực hành, mọi kiến thức là hoàn toàn bất
biến, sách vở là chân lý, đức thánh Khổng là đỉnh cao kiến thức… Suốt mấy ngàn
năm lịch sử kiến thức con người chỉ gói
gọn trong “tứ kinh” “ngũ thư”, khuôn phép bất di bất dịch “công – dung – ngôn –
hạnh” hay “… xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”… Nho giáo ban đầu chỉ ảnh hưởng
đến tầng lớp trên nhưng về lâu dần, nó có sức lan tỏa trong nhân dân một cách hết
sức sâu rộng. Ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo còn kéo dài cho đến tận bây giờ.
Tuy nhiên, triết học khổng tử, mạnh tử khi vào đến Việt Nam đã được cải biến
cho phù hợp với văn hóa bản địa. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Hoa
không có 1 quyền hành gì trong gia đình, nhưng trong xã hội Việt Nam lại ngược
lại. Họ cũng không được học hành tử tế, cũng phải “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”
nhưng họ vẫn là “tướng nhỏ” trong gia đình. Thế nên trong dân gian mới có câu:
“Đàn ông rửa bát quét nhà\Vợ gọi thì dạ thưa bà con đây”. Hơn nữa, trong tín
ngưỡng dân gian Việt Nam không ít người phụ nữ được thờ cúng như: Mẫu thượng
ngàn, mẫu Liễu Hạnh, bà chúa Kho, bà chúa Muối… , đến thế kỷ XVIII, Nhật Bản đã
thay đổi còn TQ, VN vẫn giữ nguyên nền giáo dục khoa cử, ngoại giao khép kín
(“bế quan tỏa cảng”) điều này là nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của chế độ
phong kiến. Và đôi khi, tôi thấy cảm ơn người Pháp đã chấm dứt chế độ khoa cử
trên đất nước Việt Nam, mở ra một hướng mới cho nền giáo dục.
Các nhà khoa học đánh giá bộ máy chính quyền VN ở thế kỷ XV
(thời Lê Thánh Tông) là một trong 2 bộ máy chính quyền hoàn thiện ở châu Á. Bởi
ở thời Lê Thánh Tông, tổ chức bộ máy nhà nước giống hoàn toàn với TQ. Ở đây,
không có sự áp đặt nào, đó hoàn toàn tự nguyện. Nhờ thế mà ở thời Lê Thánh Tông
cuộc sống nhân dân ấm no, hạnh phúc, yên
vui. Các bộ máy nhà nước trước chỉ học 1 phần.
Văn học nghệ thuật trung đại bị ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa
trung hoa. Chúng ta học sách vở TQ, tổ chức kỳ thi theo kiểu TQ, tổ chức bộ máy
nhà nước TQ do đó nền văn học bị ảnh hưởng bởi TQ là kết quả của những thứ đó.
Hàng loạt điển tích, điển cố chúng ta đều dùng của TQ, các khuôn phép, niêm, luật
hà khắc đều từ TQ đưa sang. Mùa thu ở VN đâu có “thu đi để lại lá vàng”. Mùa
thu Việt Nam là “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” mới đúng. Chúng ta học từ TQ
các thể thơ đường luật (Thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt) nhưng cũng không
quên sáng tạo cho mình những thể thơ riêng rất Việt Nam như lục bát, song thất
lục bát. Chinh phụ ngâm là 1 tác phẩm thơ văn viết theo ngôn ngữ dân tộc (chữ
nôm) thể thơ dân tộc (song thất lục bát) những vẫn không thua kém gì các tác phẩm
chữ Hán.
Giao lưu văn hóa với Ấn Độ. Khác với Trung Hoa, nền văn hóa Ấn
độ thẩm thấu vào nước ta một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc. Trong khi ở miền Bắc chịu
sự ảnh hưởng to lớn của văn hóa trung hoa thì trên dải đất miền Trung và miền
Nam với sự phát triển thịnh đạt của nhà nước Cham – pa cùng với nền văn hóa Óc eo lại chịu sự ảnh hưởng
mạnh mẽ của văn hóa Ấn Độ. Theo tiến sĩ Ngô Văn Doanh thì “những ảnh hưởng của
văn hóa Ấn Độ đã góp phần cực kỳ quan trọng vào quá tình hình thành ra vương quốc
chăm – pa”. Người Chăm sử dụng chữ Phạn làm chữ viết của mình. Tổ chức vương
quyền, phân cấp theo hình thức các vương triều Ấn Độ, đồng thời, tôn giáo Ấn Độ cũng theo đó
vào Việt Nam như Bà – la – môn, Ấn Độ giáo… . Ở miền Nam và miền trung văn hóa Ấn
độ được truyền vào chủ yếu thông qua con
đường giao thương hàng hóa mà không gì khác đó là buôn bán vàng. Nhưng ở
miền bắc, tuy rằng bị người Hoa ra sức Hán hóa nhưng xu hướng chống hán cũng xuất
hiện không ít. Các nhà sư truyền đạo Phật từ Ấn Độ sang là những người đem văn
hóa Ấn mấy ngàn năm sang nước ta. Lúc đầu người Việt chỉ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ
ở tầng lớp dưới (dân chúng) nhưng sự tiếp nhận ấy lại rất sâu rộng. với tín ngưỡng
đa thần của mình phật giáo đại thừa dễ dàng lan tỏa, tiếp biến, dung nạp vào
trong văn hóa bản địa của người Việt, cho đến nay phật giáo vẫn là tôn giáo
chính có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội hướng con người đến cái thiện, cái tốt lành,
cái bình đẳng và dân chủ.
Người ta thường tưởng rằng việc giao lưu văn hóa phương Tây
chỉ có ở thế kỷ XIX khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. tuy nhiên trên
thực tế điều này xuất hiện từ thời văn hóa Óc eo. Người ta đã tìm được trong
các di chỉ văn hóa những di vật của cư dân La Mã cổ đại trong nền văn hóa này. Việc
tiếp nhận văn hóa phương Tây hết sức dè dặt trong thời kỳ phong kiến do chính
sách của các triều đình là “bế quan tỏa cảng”. vào thế kỷ XVI các linh mục
phương tây vào Vn để truyền đạo thiên chúa và từ đây, văn hóa phương Tây du nhập
vào VN ít nhất là xuât hiện 1 tôn giáo mới
– Công giáo. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, áp đặt nền văn hóa “bảo hộ” của
“mẫu quốc” lên nước ta cũng là lúc văn hóa Pháp ùa vào như một làn sóng mạnh mẽ
phá tan những quy chuẩn mà suốt mấy ngàn năm phong kiến chúng ta suy tôn, chúng
ta gìn giữ. Thay vì các trường dạy chữ nho, các kỳ thi nho học, Pháp tổ chức
các trường học kiểu pháp, dạy chữ quốc ngữ. Mặc dù bị coi là “tên thực dân bủn
xỉn nhất” nhưng Pháp cũng đã đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng quan trọng
góp phần cho ra đời nền công nghiệp ở Việt
Nam, các công trường khai thác, các nhà máy chế biến… Một loại ngôn ngữ văn học
nữa mà chưa từng có ở VN cũng theo đó mà ra đời: “báo chí”, đây là phương tiện
đưa tin tức cũng là phương tiện để làm cách mạng, thức tỉnh dân nghèo vùng lên
chống lại ách đô hộ thực dân. Các tờ báo tiến bộ lúc bấy giờ là: tạp chí Cộng Sản,
Tiên phong, Cứu quốc, Việt Nam độc lập… là những tờ báo đầu tiên góp tiếng nói
vào công cuộc cách mạng, thức tỉnh nhân dân. Người Pháp dùng báo chí là công cụ
mị dân và họ không ngờ rằng người dân bản địa lại được giác ngộ nhờ chính “báo
chí” – thứ mà họ đưa vào. Những năm đầu thế kỷ XX trào lưu Âu hóa như một làn
sóng trong giới thượng lưu ở Việt Nam,lúc này xuất hiện một sự
cải biến trong tư tưởng cũng như trong lối sống ở một bộ phận tầng lớp trên. Điều
này được cổ súy bởi một số trí thức Tây học. Văn hóa Pháp được đưa vào nước ta
trong thời điểm này hết sức mạnh mẽ. Người ta bắt đầu học đòi theo lối sinh hoạt
của người Pháp. Các loại hình nghệ thuật vì thế mà cũng xuất hiện như điện ảnh,
kịch nói, hội họa; các thể loại văn học mới như: thơ mới, tiểu thuyết…. Hoài
Thanh đã từng nhận xét “10 năm của ta bằng 30 năm của người” đó là minh chứng
cho sự phát triển của văn học lúc bấy giờ. Các nhà thơ mới nổi tiếng như Xuân
Diệu, Huy Cận, Thế Lữ… vẫn là những cái tên quen thuộc trên văn đàn Việt Nam. Họ
đã phá vỡ những quy chuẩn đạo đức, những niêm luật hà khắc của thi ca trung đại
để bứt phá, để phát triển nghệ thuật, đưa nghệ thuật lên một tầm cao mới.
Khoàng 80 năm Pháp thuộc, quả là chúng ta đã chịu nhiều đau thương nhưng cũng
trong 80 năm ấy, sự tiếp thu văn hóa của “nền văn minh công nghiệp” đã làm thay
đổi diện mạo nước ta. Chúng ta không còn duy trì những tư duy cổ lỗ sỹ trong giáo
lý Không Tử, từ bỏ chữ viết tượng hình để tiếp thu một chữ viết mới hơn – chữ latin. Sau 80 năm pháp thuộc nền văn hóa chúng ta được tái cấu trúc lại
chúng ta đang dần dần từ bỏ phương thức sản xuất cũ, tư duy cũ để tiến gần thêm
nền văn minh công nghiệp, và hậu công nghiệp.

Ngoài văn hóa Pháp chúng ta còn chịu ảnh hưởng từ văn hóa Nga
(Liên Xô cũ) và cho đến nay nền văn hóa đó vẫn chưa bị phai nhạt. 70 năm liên
bang Xô – Viết xã hội chủ nghĩa là 70 năm huy hoàng của nước Nga vĩ đại, người
Nga vĩ đại. Văn hóa Nga cũng vĩ đại như dân tộc họ, như chiến công của Hồng
quân Liên Xô thuở ấy vậy. Không ít người Việt biết đến “Sông Đông êm đềm”,
“Thép đã tôi thế đấy”, hay các nhà thơ, nhà văn Tonstoi, Êxênin, Pasternak,
Prisvin, Pauxtôvxki, A. Blôk, Paxputi… qua các tác phẩm của họ. Sự giúp đỡ thân
tình của “anh cả” Liên Xô trong 2 cuộc chiến tranh ở nước ta cũng đã đưa văn
hóa Liên Xô vào lãnh thổ chúng ta một cách tự nhiên. Từ các vật dụng thường ngày với mác CCCP, đến các vũ
khí tối tân , hiện đại nhất mà người Nga viện trợ cho chiến tranh Việt Nam như
xe tăng (T – 54), tên lửa (SAM – 2), máy bay (MIG – 21) súng trường AK -
47… văn hóa Nga còn ảnh hưởng đến văn
hóa giáo dục ở nước ta. Người Việt thường có câu “giàu thì đi đức, trí thức thì
đi Nga” Người Nga vốn là những người có tư duy lí luận. Quả thật ngày nay, các
giáo sư đầu ngành của các ngành khoa học thường là những người được đào tạo từ
liên bang Xô – Viet cũ. Các cuốn sách giáo trình được trình bày theo kiểu Nga rất
nặng về tư duy lý luận. Suốt một thời gian dài trong thời kỳ bao cấp chúng ta học
theo tổ chức nhà nước của Liên Xô. Mặc dù có rất nhiều bất cập như: giết chết sức
cạnh tranh và sáng tạo, lu mờ cái “tôi” cá nhân, nhận thức sai về kinh tế thị
trường, phân phối sản phẩm không đồng đều… Đó là những khuyết điểm không thể phủ
nhận nhưng chúng ta đã kịp thời nhận ra và sửa chữa chúng theo hướng tích cực. Bởi
thế cho nên, cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1974 kéo theo sự sụp đổ của Liên Xô và hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Nhưng chúng ta vẫn đứng vững. Sự sụp
đổ đó chỉ là sự sụp đổ của một bộ máy nhà nước mới đầu tiên đầy khuyết tật.
Không giống như các học giả phương Tây nhận xét: “Việt Nam, Trung Quốc, Cu –
ba, Triều Tiên chỉ là “đứa con côi cút” của chủ nghĩa Cộng sản”. Không! chúng
ta phải là những đứa con “ưu tú” bởi sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê
nin và mô hình nhà nước Soviet vào tổ chức nhà nước. Nó làm nên một văn hóa
chính trị không chỉ mang tư tưởng của học thuyết Mác – Lenin mà còn mang bản sắc
người Việt. Nhận thức đúng đắn, cải cách kịp thời cùng với bản chất cần cù, chịu
khó, chịu đựng con người Việt Nam đã giúp nước ta vượt qua thời kỳ khó khăn đó
để vững bước trên con đường hội nhập ngày nay.
Trong giai đoạn hiện nay, sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa
hoàn toàn là tự nguyện, tự chủ. chúng ta đã thực sự hòa mình vào thế giới vào sự
phát triển chung của nhân loại loài người. thế giới trở nên không cực. Các ngày
lễ của phương Tây bắt đầu du nhập vào Việt Nam và được nhiều người hưởng ứng ví
dụ như ngày: Noel, valentine… Cùng với xu thế chung, chúng ta càng ngày càng hội
nhập sâu hơn với thế giới, không chỉ tiếp nhận văn hóa phương Tây và các nước
lân cận, chúng ta còn đem văn hóa đến các quốc gia khác. Ở Nhật, người ta rất
ưa chuộng áo dài và nón lá, ở nhiều thành phố trên thế giới, người dân thích ăn
bánh mì kiểu Việt Nam, ở Pháp món Nem,
Phở được đưa vào trong từ điển ẩm thực và nhất là họ rất thích chúng. Những
ngày hội văn hóa VIệt Nam ở nước ngoài đã góp phần đưa văn hóa của nước ta đến
gần hơn với bè bạn quốc tế, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam, con người Việt
Nam.Cùng với nhịp sống hiện đại và tiến bộ chung của khoa học công nghệ, chúng
ta đã học hỏi được nhiều điều hay, điều tốt đẹp của bạn bè quốc tế. Bằng phương
tiện tin học việc giao lưu văn hóa lại càng dễ dàng và phong phú. Chỉ với 1 chiếc
máy tính có kết nối internet, cả thế giới dưới những đầu ngón tay của bạn!!! Đó
là kho thông tin khổng lồ với nhiều loại hình văn hóa: Phim ảnh, ngôn ngữ, văn
học, nghệ thuật từ nhiều quốc gia.
Nhiều người coi Việt Nam là “bản sao” của văn hóa Trung Hoa.
Nhưng thực chất, khi nghiên cứu sâu hơn về nền văn hóa nước mình người ta thấy
chúng ta chỉ là “vỏ Tàu”, “lõi Việt”. Chúng ta đã dung nạp văn hóa Trung Hoa
vào văn hóa nước mình dựa trên nền tảng của văn hóa Đông Sơn với cơ tầng là văn
hóa Đông – Nam Á. Một số nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng: chỉ cần bị đô hộ 300
năm dân tộc đó sẽ bị đồng hóa. Nhưng suốt 1000 đô hộ của phong kiến phương Bắc
năm, người Việt vẫn là chính họ trước sức ép văn hóa từ các đế chế quân chủ TQ.
Chúng ta vẫn là những người Việt đầy chịu đựng, lam lũ nhưng cũng anh dũng, anh
hùng. Chúng ta đã làm nền một thế kỷ XX hào hùng, bi tráng với 2 cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại nhất của lịch sử, chúng ta đã đối đầu với 2 tên thực dân đầu
sỏ, những con “sen đầm quốc tế” khao khát xóa tên VN trên bản đồ thế giới. Một
“hội chứng Việt Nam” dành tặng cho xã hội Mỹ thế kỷ XX để cuối cùng họ nhận ra
rằng “chúng ta thua Việt Nam vì không hiểu hết văn hóa Việt Nam”.
toinhotoituhao