Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015

 
70 NĂM

70 năm ai còn ai mất...?
Nhưng nhân loại cảm ơn những chiến sĩ Hồng Quân
Cảm ơn Liên Xô với ngọn cờ bách thắng
Dù phải hi sinh hơn 20 triệu con người.

Liên Xô không còn, nhưng vững chãi nước Nga
Một dân tộc dám đương đầu tất cả
Thế chiến thứ 2 kẻ thua phải trả giá
Hít Le đóng cửa hầm tự tử trước bình minh.

Lũ phát xít ngày xưa đến nay còn hiện hữu
Những kẻ giết người man rợ chẳng ghê tay
Hòa bình ơi sao trên đời khó thế
Hãy trân trọng giữ gìn giá trị của Hi Sinh.

Sưu tầm
                                              9-5- 2015 Bùi Nguyên Khoái

Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2015

LIÊN XÔ – LỊCH SỬ BỊ BÓP MÉO.

Ngày 9.5 được xem là ngày chiến thắng Phatxit. Đức đầu hàng vô điều kiện. Bức tường Berlin được thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa được thiết lập trên khắp Đông Âu và trở thành một hệ thống.
Tuy nhiên thời gian có thể làm phai mờ đi mọi thứ. Ngày nay, 13% nhân dân Anh; 8% dân Pháp và 17 % dân Đức cho rằng công lao chiến thắng Phát – xít giúp con người thoát khỏi nạn diệt chủng là nhờ Liên Xô. Khoảng 52 – 61 % cho rằng do công lao của Mỹ. Vậy rốt cục ai là người có công trong cuộc chiến thần thánh và vĩ đại này. Riêng tôi, trên quan điểm lịch sử của mình thì cho rằng đó là công lao của nhân dân trên toàn thế giới mà công lớn đó là của Liên Xô và các nước đồng minh. Vậy tại sao người ta lại có sự lãng quên đến kinh ngạc như vậy. Phải chăng người phương Tây không “uống nước nhớ nguồn” sao?
Để giải thích điều này có thể bắt đầu từ lúc Đức phá bỏ hiệp ước với Liên Xô kéo quân đánh chiếm Liên Xô. Đồng minh với Liên Xô là ai? Anh, Pháp,  Mỹ. Họ đang làm gì khi Liên Xô  bị vây kín, thất thủ? Họ đứng ngoài cuộc, nhìn những động thái của nhà nước Soviet xã hội chủ nghĩa làm. Thật nực cười cho một “lũ” đồng minh. Sau khi Hitler thất thủ ở Stalingrate đánh dấu một đợt phản công dữ dội. Hồng quân Liên Xô với vũ khí tối tân với sức mạnh Nga, con người Nga, tinh thần Nga đã vực dậy quất cường. Không chỉ bảo vệ được lãnh thổ Nga mà còn giải phóng cho hàng loạt các nước phương Tây trong đó có Đông Âu, thiết lập một thế giới mới – thế giới 2 cực Mỹ - Xô. Ngay từ đầu người ta đã lo sợ, người ta đã kỳ thị nhà nước XHCN như Liên Xô.
Tiếp đến là cuộc gặp gỡ lịch sử của các nhà lãnh đạo quân đông minh khi đó tại hội nghị Yalta

Với những nét biểu cảm của các nhà lãnh đạo đủ thấy rằng Liên Xô bị cô lập như thế nào.
Sau chiến tranh. Tất cả các  nước đồng minh (trừ Mỹ) đều bị thiệt hại vô cùng nặng nề trong đó có liên bang Soviet. Vừa xây dựng đất nước, vừa phải giúp đỡ các nước Đông Âu xây dựng cơ sở vật chất cho XHCN. Người Nga đã dang đôi tay to lớn của họ cứu giúp Đông Âu thoát khỏi sự tàn phá của chiến tranh. Và châu Âu bắt đầu một trang lịch sử mới của nó. Một sự chia rẽ lớn lao với nhân loại. Để ngăn chặn tham vọng đơn cực thế giới của Hoa Kỳ, Liên bang Soviet với tư tưởng đối lập hình thành hệ thống các nước XHCN theo tư tưởng Mac – Lenin. Thế giới như một thỏi nam châm 1cực hướng về Nga, một cực hướng về Mỹ. Kế hoạch Marshall cùng với học thuyết Truman: 17 tỉ USD được tung ra để viện trợ kinh tế cho Tây Âu. Và có lẽ vì thế mà người ta nhanh chóng quên đi những năm tháng chiến tranh gian khổ, những người bạn đã từng kề vai sát cánh với họ.
Thời gian qua đi, thời đại hoàng kim của Liên Xô cũng hết “nhờ những nỗ lực” của Gorbachop. Liên Xô rơi vào khủng hoảng dầu khí trầm trọng và dĩ nhiên “Ốc còn không nuôi nổi mình ốc” thì làm sao  nuôi được sên. Cuối thế kỷ XX người ta chứng kiến một cảnh tượng đau đớn, sự sụp đổ của hàng loạt các quốc gia XHCN – một hệ thống XHCN ở phương Tây. Và sự thay đổi chế độ đã dẫn đến chủ nghĩa xét lại. Người ta xét lại lịch sử ép lịch sử phải năm trong bối cảnh hiện tại. Người ta tô vẽ lịch sử, bôi nhọ lịch sử, bóp méo lịch sử. Người ta vứt chủ nghĩa cộng sản – cái chủ nghĩa đã từng cứu sống họ, xây dựng cơ sở vật chất cho họ - vào sọt rác. Người ta dè bỉu nó, khinh miệt nó, nói xấu nó để chứng tỏ với người Mỹ rằng họ là “đồng minh tin cậy” của Mỹ. Họ muốn có viện trợ của Mỹ. Những đứa con đầu tiên “chết yểu” đó của chủ nghĩa Cộng sản đơn giản vì 1 điều nó quên đi cái gốc của nó. Nó tự chuyển hóa bôi nhọ chính nó. Nó không tự thân vận động mà chỉ dựa vào “vật chủ” (Liên Xô). Sự sụp đổ đó là sự sụp đổ của một mô hình đầy khuyết tật thiếu sáng tạo, không thay đổi. Thời gian lại trôi đi, có những nhiều thứ cũng qua đi, cũng thay đổi. Thời đại google với sự bùng nổ về thông tin người ta bắt đầu tô vẽ lịch sử, bôi trát lịch sử. Có những thứ huy hoàng bị phôi pha có những điều nhỏ nhặt lại được tôn vinh ca ngợi vì trục lợi, vì bợ đỡ, vì lợi ích, vì vô tâm. Rồi có những khi mệt nhoài trong bộn bề cuộc sống trong vòng luẩn quẩn của danh lợi họ lại thích tung hô những thứ vô vị, mờ mịt và dối trá. Họ quên Liên Xô như quên đi cái thời đại huy hoàng của nó thời đại của công trường xưởng máy, thời đại của những người Cộng sản đảng Bonsevic của Lenin, thời đại mà cả Liên Xô như một công trường khổng lồ niềm tin mãnh liệt cho các dân tộc bị áp bức. Có những dân tộc bé nhỏ bị dập vùi bởi bom đạn chiến tranh họ cũng mang một niềm tin bất diệt vào Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Họ ước mơ, họ sống trong bom đạn và nuôi lớn lý tưởng Cộng sản của mình. Người ta quên Liên Xô quên đi những mất mát của dân tộc Nga và các dân tộc liên bang phải chịu. Sự tàn phá, sự hy sinh của cả người lính Hồng quân quật cường và những người vợ, người mẹ hậu phương “Trời có mưa dầm dề/Ngày có dài lê thê/ Thì em ơi vẫn đợi”.
Tôi không mong muốn có thể đi tìm sự công bằng cho lịch sử bằng một bài viết ngắn . Nhưng tôi muốn nói rằng như một lời cảnh báo “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn trả anh bằng đại bác” với những ai đang thờ ơ, đang quay lưng, ghẻ lạnh với  lịch sử với quá khứ.
Tài liệu tham khảo

toinhotoituhao

Thứ Năm, 7 tháng 5, 2015

VIỆT NAM ĐỘC LẬP VỀ VĂN HÓA.
VĂN HÓA VIỆT BẢN SAO VĂN HÓA TRUNG HOA HAY LÀ SỰ DUNG HỢP CỦA CÁC NỀN VĂN HÓA TRONG MỘT NỀN VĂN HÓA

CHỦ ĐỀ: Giao lưu và tiếp xúc văn hóa


Có lẽ, trên lãnh thổ nước ta chưa bao giờ có sự du nhập về văn hóa lớn đến như vậy. Một dân tộc từ trước đến giờ luôn dè dặt với cái mới thì hôm nay, muôn màu văn hóa có mặt trên nước ta và ở các nước khác áo dài được người ta trân trọng, bánh mì kẹp kiểu Việt Nam được ưu chuộng. Ngày nay, trên một thế giới vô cực, văn hóa trở thành  hàng hóa, trở thành công cụ truyền thông, người ta biết đến 1 đất nước xa xôi nào đó chỉ cần lướt đôi tay trên bàn phím. Dường như cái tưởng chừng bất biến, cái tưởng là cốt lõi không thể đổi dời, đặt trong xã hội mở, quan niệm mở nó cũng giao thoa với nhau, với các nền văn hóa khác.
Văn hóa theo quan niệm của người phương Đông là : “Văn trị giáo hóa” còn phương tây với thuật ngữ Cultural có nghĩa là trồng trọt tinh thần. Văn hóa vốn là một thuật ngữ trừu tượng nhưng hầu hết trong 400 định nghĩa về nó trên thế giới hầu hết đều liên quan đến cốt lõi tinh thần của con người. Giao lưu và tiếp xúc văn hóa là thuật ngữ mới xuất hiện ở Việt Nam được dịch từ từ acculturation. Nó được định nghĩa là sự vận động thường xuyên của xã hội , gắn bó với tiến hóa xã hội nhưng cũng gắn với sự phát triển của văn hóa, là sự vận động thường xuyên của văn hóa. Ở nhiều nước trên thế giới định nghĩa này được sử dụng với nhiều thuật ngữ khác nhau, cách hiểu khác nhau ví dụ như ở Pháp: Interpénétration des civilisation (sự hòa nhập giữa các nền văn minh) hay ở Anh cultural change (trao đổi văn hóa)…
Cơ tầng văn hóa Việt Nam hay cái gốc của văn hóa Việt Nam chính là văn hóa Đông Nam Á. Trước khi bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ, văn hóa phương Tây, văn hóa Việt Nam là nền văn hóa hòa chung với văn hóa Đông Nam Á. Tổ tiên ta những người Mongoloid đã sống trên đại lục châu Á, và cả trên vùng đất Đông Nam Á yêu quý của chúng ta. Suốt chiều dài lịch sử rất, rất lâu họ sinh sống và sáng tạo ra văn hóa – một nền văn hóa riêng chỉ có ở vùng đông nam châu Á này. Cùng với sự tiến hóa của vạn vật trong đó có cả loài người tổ tiên ta đã biết trồng trọt từ rất sớm. Có thể khí hậu xích đạo đã cho chúng ta những ưu đãi tuyệt vời từ thiên nhiên. Bắt đầu là săn bắn, trồng rau củ đến những nương lúa ngày nay. Ngay từ thế kỷ VI TCN, những người Đông Nam Á đã biết trồng lúa nương, lúa nước… tùy theo địa hình. Một học giả phương Tây từng nói: “Đông Nam Á chẳng có gì sáng tạo đáng kể… ngoài trống đồng và có thể kể thêm cái nơm úp cá” có vẻ điều đó thật phiến diện. Thử nhìn xem, trên 1 vùng Đông Nam Á rộng lớn trải dài từ phía Nam sông Dương Tử đến các đảo xa khơi bất cứ nơi nào có thể, cây lúa đều mọc, đều sinh sôi, đều phát triển. Nền văn minh rực rỡ với kỹ thuật canh tác lúa nước đạt đến trình độ cao đó là sản phẩm của nền văn hóa Đông Nam Á. Nó được sản sinh và bồi đắp qua hàng ngàn thế hệ nối tiếp nhau .Ngày nay, Đông Nam Á là vùng cung cấp lúa gạo lớn nhất hành tinh với sản lượng lớn nhất, chất lượng cao nhất góp phần to lớn vào an ninh lương thực thế giới. Điều đó không phải là sáng tạo của người ĐNA cống hiến vào nền văn minh chung của nhân loại sao?. Ở Đông Nam Á, người phụ nữ được đề cao. Nhiều nhà nghiên cứu đã khá bất ngờ khi ở VN người phụ nữ phong kiến tuy bị chịu thiệt thòi nhưng họ vẫn là “tướng nhỏ” của gia đình. Cái ảnh hưởng của phương Bắc trong chiến lược dài hơi “đồng hóa người Việt” chỉ làm cho văn hóa VN phủ một lớp “vỏ Tàu” thôi. Đời sống tinh thần của người ĐNA là tín ngưỡng thờ cúng thiên nhiên như: thần đất, thần nước, thần lúa… điều này thực ra không có gì khó hiểu cả, trước đây, khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển chúng ta phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Để tìm thấy sự bình an, người ta sinh ra tôn giáo, tín ngưỡng. Việc thờ các vị thiên thần giống như khát vọng được sinh tồn, ước mơ được mưa thuận gió hòa, được bội thu… Ở ĐNA tổ tiên cũng được thờ cúng điều này thể hiện sự coi trọng những người đã khuất. Cũng giống như hầu hết các nước ĐNA, ở VN cư dân Việt cổ kiểu tư duy lưỡng phân như: thiên – địa (có trời ắt có đất), đực – cái, âm – dương… những tín hiệu văn hóa đó có mặt trên các sản phẩm văn hóa như họa tiết trên váy, trống đồng, điêu khắc trên đá… Nếu như phương Tây một từ có thể có nhiều âm tiết nhưng ở hệ ngôn ngữ ĐNA lại là hệ ngôn ngữ đơn âm. Khu vực ĐNA được đánh giá là khu vưc có địa hình khá phức tạp gồm cả địa hình núi đá, đồng bằng, và vùng biển. nền văn hóa đồng bằng tuy có sau nhưng lại mang vai trò quyết định bởi nó phát triển phổ biến, mạnh mẽ và rộng rãi hơn. Nằm trên đường giao thoa giữa lục địa và biển đảo, về cơ bản, nền văn hóa VN có đầy đủ những yếu tố của vh ĐNA: cả ĐNA lục địa lẫn ĐNA hải đảo, cả vùng núi lẫn vùng biển.


Dường như chỉ nhìn thoáng qua người ta có thể thấy sự ảnh hưởng khủng khiếp của văn hóa Trung Hoa ở VN. Hầu hết tiếng Việt đều là âm Hán – Việt,văn hóa, tôn giáo, tư duy gần sát với Trung Quốc. Có nhiều khi người ta xem văn hóa Việt Nam là “bản sao” của văn hóa Trung Hoa. Nhưng có phải là người TQ đã thành công trong tiến trình đồng hóa người Việt hay không? Lịch sử đã trả lời câu hỏi đó thật rõ ràng, thật đúng đắn. Đó là “không”. Ngay trong buổi hồng hoang, cư dân Bách Việt đã sinh sống trên vùng Hoa Nam – Trung Quốc, hay nói cách khác vùng Đông – Nam TQ là lãnh thổ của người Việt. Trong một thời gian rất dài, sự vận động xuống phía Nam của người Hoa dồn cư dân Bách Việt xuống lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Văn hóa Trung Hoa cũng từ đó mà bắt đầu có sự giao lưu tiếp biến với người Việt. Thông thường người ta chia ra làm 2 loại hình giao lưu văn hóa đó là: giao lưu cưỡng bức và không cưỡng bức. Có lẽ với người Việt văn hóa TH giao lưu cưỡng bức nhiều hơn. Một phép liệt kê đơn giản: Từ thuở Hùng Vương giặc Ân, quân Triệu Đà đã xâm lược nước ta, sau đó là nhà Hán, Tống, Đường, Nguyên, Minh, Thanh, quân Tưởng Giới Thạch, chiến tranh biên giới 1979, 1988… có lẽ không 1 triều đại nào, không một chế độ nào không nuôi dòng máu khát thèm vùng đất phía Nam và muôn đời nay, chúng ta vẫn là “khúc xương khó nuốt” cho “người bạn” phương Bắc. Chắc chắn chẳng ai quên mối thù ngàn năm nô dịch của đế  chế quân chủ phương Bắc. Từ đó, văn hóa TQ được du nhập mạnh mẽ vào VN. Suốt 1 thiên niên kỉ Hán hóa, chữ viết mới, tôn giáo mới vào VN. Nhưng theo những cứ liệu lịch sử thu được, ở thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 1 (khoảng 200 năm đầu) chính sách đô hộ còn lỏng lẻo, chúng chỉ bị siết chặt khi cuộc khởi nghĩa 2 bà Trưng nổi lên, giáng một đòn mạnh vào chính quyền đô hộ. và cũng từ đây, sự giao lưu văn hóa một cách cưỡng bức diễn ra mạnh mẽ mãnh liệt hơn bao giờ hết. Chưa có một văn bản nào cho thấy chữ viết của người Việt trước thời kỳ Bắc thuộc. Chữ viết – phương tiện quan trọng nhất được ra đời. Trong suốt thời kỳ phong kiến chúng ta sử dụng chữ viết là chữ Hán. Song song với xu hướng Hán hóa là xu hướng chống Hán hóa. Và cứ thế, chữ Nôm ra đời dựa theo chữ Hán nhưng viết theo âm người Việt. Chữ Nôm không được dùng phổ biến chỉ đến thể kỷ XV dòng văn học bằng chữ Nôm mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ với các tác phẩm của Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm và không thể không kể đến tuyệt đỉnh của văn học chữ Nôm Truyện Kiều (Nguyễn Du) tác phẩm này không còn hạn chế ở phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng khác trên thế giới. Điều này minh chứng cho nghệ thuật, ngôn ngữ dân tộc không còn thua kém gì ngôn ngữ các nước khác. Nhờ chiến tranh mà tôn giáo cũng “theo chân” kẻ xâm lược vào Việt Nam. Tiêu biểu là phật giáo đại thừa. Ở thời nhà Lý, phật giáo đại thừa ảnh hưởng vô cùng lớn đến chính trị và xã hội. Rất nhiều ngôi chùa được dựng lên, phật giáo trở thành quốc giáo của người Việt bấy giờ. Hơn nữa rất nhiều người dân theo phật giáo. Đi song hành với phật giáo, nho giáo cũng du nhập vào Việt Nam, ban đầu là cưỡng bức. Nho giáo khuyên răn con người hướng đến nhân nghĩa đạo đức, hướng đến Trung – Hiếu – Lễ - Nghĩa – Tín, hướng con người đến khuôn phép “quốc có quốc pháp, gia có gia quy”. Với sự thẩm thấu dần dần, người Việt tiếp nhận nho giáo một cách tự nguyện.
 Đến thế kỷ XV, nho giáo trở thành tư tưởng chính thống của người Việt, ăn sâu vào lối sống nếp nghĩ cho đến tận bây giờ. Từ 1 tôn giáo bị ép buộc tiếp nhận, thế kỷ thứ XI, lần đầu tiên chúng ta có 1 kỳ thi nho học theo mô hình của Trung Quốc với 3 kỳ thi Hương – Hội – Đình. Nho giáo thiết lập kỷ cương và điều hành xã hội bằng giáo dục. Tuy nhiên hạn chế của giáo dục nho học là chỉ chú trọng vào lý thuyết không có thực hành,  mọi kiến thức là hoàn toàn bất biến, sách vở là chân lý, đức thánh Khổng là đỉnh cao kiến thức… Suốt mấy ngàn năm lịch sử kiến thức con người  chỉ gói gọn trong “tứ kinh” “ngũ thư”, khuôn phép bất di bất dịch “công – dung – ngôn – hạnh” hay “… xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”… Nho giáo ban đầu chỉ ảnh hưởng đến tầng lớp trên nhưng về lâu dần, nó có sức lan tỏa trong nhân dân một cách hết sức sâu rộng. Ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo còn kéo dài cho đến tận bây giờ. Tuy nhiên, triết học khổng tử, mạnh tử khi vào đến Việt Nam đã được cải biến cho phù hợp với văn hóa bản địa. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Hoa không có 1 quyền hành gì trong gia đình, nhưng trong xã hội Việt Nam lại ngược lại. Họ cũng không được học hành tử tế, cũng phải “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nhưng họ vẫn là “tướng nhỏ” trong gia đình. Thế nên trong dân gian mới có câu: “Đàn ông rửa bát quét nhà\Vợ gọi thì dạ thưa bà con đây”. Hơn nữa, trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam không ít người phụ nữ được thờ cúng như: Mẫu thượng ngàn, mẫu Liễu Hạnh, bà chúa Kho, bà chúa Muối… , đến thế kỷ XVIII, Nhật Bản đã thay đổi còn TQ, VN vẫn giữ nguyên nền giáo dục khoa cử, ngoại giao khép kín (“bế quan tỏa cảng”) điều này là nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của chế độ phong kiến. Và đôi khi, tôi thấy cảm ơn người Pháp đã chấm dứt chế độ khoa cử trên đất nước Việt Nam, mở ra một hướng mới cho nền giáo dục.
Các nhà khoa học đánh giá bộ máy chính quyền VN ở thế kỷ XV (thời Lê Thánh Tông) là một trong 2 bộ máy chính quyền hoàn thiện ở châu Á. Bởi ở thời Lê Thánh Tông, tổ chức bộ máy nhà nước giống hoàn toàn với TQ. Ở đây, không có sự áp đặt nào, đó hoàn toàn tự nguyện. Nhờ thế mà ở thời Lê Thánh Tông cuộc sống nhân dân  ấm no, hạnh phúc, yên vui. Các bộ máy nhà nước trước chỉ học 1 phần.
Văn học nghệ thuật trung đại bị ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa trung hoa. Chúng ta học sách vở TQ, tổ chức kỳ thi theo kiểu TQ, tổ chức bộ máy nhà nước TQ do đó nền văn học bị ảnh hưởng bởi TQ là kết quả của những thứ đó. Hàng loạt điển tích, điển cố chúng ta đều dùng của TQ, các khuôn phép, niêm, luật hà khắc đều từ TQ đưa sang. Mùa thu ở VN đâu có “thu đi để lại lá vàng”. Mùa thu Việt Nam là “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” mới đúng. Chúng ta học từ TQ các thể thơ đường luật (Thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt) nhưng cũng không quên sáng tạo cho mình những thể thơ riêng rất Việt Nam như lục bát, song thất lục bát. Chinh phụ ngâm là 1 tác phẩm thơ văn viết theo ngôn ngữ dân tộc (chữ nôm) thể thơ dân tộc (song thất lục bát) những vẫn không thua kém gì các tác phẩm chữ Hán.
Giao lưu văn hóa với Ấn Độ. Khác với Trung Hoa, nền văn hóa Ấn độ thẩm thấu vào nước ta một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc. Trong khi ở miền Bắc chịu sự ảnh hưởng to lớn của văn hóa trung hoa thì trên dải đất miền Trung và miền Nam với sự phát triển thịnh đạt của nhà nước Cham – pa  cùng với nền văn hóa Óc eo lại chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Ấn Độ. Theo tiến sĩ Ngô Văn Doanh thì “những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đã góp phần cực kỳ quan trọng vào quá tình hình thành ra vương quốc chăm – pa”. Người Chăm sử dụng chữ Phạn làm chữ viết của mình. Tổ chức vương quyền, phân cấp theo hình thức các vương triều  Ấn Độ, đồng thời, tôn giáo Ấn Độ cũng theo đó vào Việt Nam như Bà – la – môn, Ấn Độ giáo… . Ở miền Nam và miền trung văn hóa Ấn độ được truyền vào chủ yếu thông qua con  đường giao thương hàng hóa mà không gì khác đó là buôn bán vàng. Nhưng ở miền bắc, tuy rằng bị người Hoa ra sức Hán hóa nhưng xu hướng chống hán cũng xuất hiện không ít. Các nhà sư truyền đạo Phật từ Ấn Độ sang là những người đem văn hóa Ấn mấy ngàn năm sang nước ta. Lúc đầu người Việt chỉ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ ở tầng lớp dưới (dân chúng) nhưng sự tiếp nhận ấy lại rất sâu rộng. với tín ngưỡng đa thần của mình phật giáo đại thừa dễ dàng lan tỏa, tiếp biến, dung nạp vào trong văn hóa bản địa của người Việt, cho đến nay phật giáo vẫn là tôn giáo chính có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội  hướng con người đến cái thiện, cái tốt lành, cái bình đẳng và dân chủ.
Người ta thường tưởng rằng việc giao lưu văn hóa phương Tây chỉ có ở thế kỷ XIX khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. tuy nhiên trên thực tế điều này xuất hiện từ thời văn hóa Óc eo. Người ta đã tìm được trong các di chỉ văn hóa những di vật của cư dân La Mã cổ đại trong nền văn hóa này. Việc tiếp nhận văn hóa phương Tây hết sức dè dặt trong thời kỳ phong kiến do chính sách của các triều đình là “bế quan tỏa cảng”. vào thế kỷ XVI các linh mục phương tây vào Vn để truyền đạo thiên chúa và từ đây, văn hóa phương Tây du nhập vào VN ít nhất là xuât hiện  1 tôn giáo mới – Công giáo. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, áp đặt nền văn hóa “bảo hộ” của “mẫu quốc” lên nước ta cũng là lúc văn hóa Pháp ùa vào như một làn sóng mạnh mẽ phá tan những quy chuẩn mà suốt mấy ngàn năm phong kiến chúng ta suy tôn, chúng ta gìn giữ. Thay vì các trường dạy chữ nho, các kỳ thi nho học, Pháp tổ chức các trường học kiểu pháp, dạy chữ quốc ngữ. Mặc dù bị coi là “tên thực dân bủn xỉn nhất” nhưng Pháp cũng đã đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng quan trọng góp phần cho ra đời  nền công nghiệp ở Việt Nam, các công trường khai thác, các nhà máy chế biến… Một loại ngôn ngữ văn học nữa mà chưa từng có ở VN cũng theo đó mà ra đời: “báo chí”, đây là phương tiện đưa tin tức cũng là phương tiện để làm cách mạng, thức tỉnh dân nghèo vùng lên chống lại ách đô hộ thực dân. Các tờ báo tiến bộ lúc bấy giờ là: tạp chí Cộng Sản, Tiên phong, Cứu quốc, Việt Nam độc lập… là những tờ báo đầu tiên góp tiếng nói vào công cuộc cách mạng, thức tỉnh nhân dân. Người Pháp dùng báo chí là công cụ mị dân và họ không ngờ rằng người dân bản địa lại được giác ngộ nhờ chính “báo chí” – thứ mà họ đưa vào. Những năm đầu thế kỷ XX trào lưu Âu hóa như một làn sóng trong giới thượng lưu ở Việt Nam,lúc này xuất hiện  một  sự cải biến trong tư tưởng cũng như trong lối sống ở một bộ phận tầng lớp trên. Điều này được cổ súy bởi một số trí thức Tây học. Văn hóa Pháp được đưa vào nước ta trong thời điểm này hết sức mạnh mẽ. Người ta bắt đầu học đòi theo lối sinh hoạt của người Pháp. Các loại hình nghệ thuật vì thế mà cũng xuất hiện như điện ảnh, kịch nói, hội họa; các thể loại văn học mới như: thơ mới, tiểu thuyết…. Hoài Thanh đã từng nhận xét “10 năm của ta bằng 30 năm của người” đó là minh chứng cho sự phát triển của văn học lúc bấy giờ. Các nhà thơ mới nổi tiếng như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ… vẫn là những cái tên quen thuộc trên văn đàn Việt Nam. Họ đã phá vỡ những quy chuẩn đạo đức, những niêm luật hà khắc của thi ca trung đại để bứt phá, để phát triển nghệ thuật, đưa nghệ thuật lên một tầm cao mới. Khoàng 80 năm Pháp thuộc, quả là chúng ta đã chịu nhiều đau thương nhưng cũng trong 80 năm ấy, sự tiếp thu văn hóa của “nền văn minh công nghiệp” đã làm thay đổi diện mạo nước ta. Chúng ta không còn duy trì những tư duy cổ lỗ sỹ trong giáo lý Không Tử, từ bỏ chữ viết tượng hình để tiếp thu một  chữ viết mới hơn – chữ latin. Sau 80  năm pháp thuộc  nền văn hóa chúng ta được tái cấu trúc lại chúng ta đang dần dần từ bỏ phương thức sản xuất cũ, tư duy cũ để tiến gần thêm nền văn minh công nghiệp, và hậu công nghiệp.

Ngoài văn hóa Pháp chúng ta còn chịu ảnh hưởng từ văn hóa Nga (Liên Xô cũ) và cho đến nay nền văn hóa đó vẫn chưa bị phai nhạt. 70 năm liên bang Xô – Viết xã hội chủ nghĩa là 70 năm huy hoàng của nước Nga vĩ đại, người Nga vĩ đại. Văn hóa Nga cũng vĩ đại như dân tộc họ, như chiến công của Hồng quân Liên Xô thuở ấy vậy. Không ít người Việt biết đến “Sông Đông êm đềm”, “Thép đã tôi thế đấy”, hay các nhà thơ, nhà văn Tonstoi, Êxênin, Pasternak, Prisvin, Pauxtôvxki, A. Blôk, Paxputi… qua các tác phẩm của họ. Sự giúp đỡ thân tình của “anh cả” Liên Xô trong 2 cuộc chiến tranh ở nước ta cũng đã đưa văn hóa Liên Xô vào lãnh thổ chúng ta một cách tự nhiên. Từ các  vật dụng thường ngày với mác CCCP, đến các vũ khí tối tân , hiện đại nhất mà người Nga viện trợ cho chiến tranh Việt Nam như xe tăng (T – 54), tên lửa (SAM – 2), máy bay (MIG – 21) súng trường AK - 47…  văn hóa Nga còn ảnh hưởng đến văn hóa giáo dục ở nước ta. Người Việt thường có câu “giàu thì đi đức, trí thức thì đi Nga” Người Nga vốn là những người có tư duy lí luận. Quả thật ngày nay, các giáo sư đầu ngành của các ngành khoa học thường là những người được đào tạo từ liên bang Xô – Viet cũ. Các cuốn sách giáo trình được trình bày theo kiểu Nga rất nặng về tư duy lý luận. Suốt một thời gian dài trong thời kỳ bao cấp chúng ta học theo tổ chức nhà nước của Liên Xô. Mặc dù có rất nhiều bất cập như: giết chết sức cạnh tranh và sáng tạo, lu mờ cái “tôi” cá nhân, nhận thức sai về kinh tế thị trường, phân phối sản phẩm không đồng đều… Đó là những khuyết điểm không thể phủ nhận nhưng chúng ta đã kịp thời nhận ra và sửa chữa chúng theo hướng tích cực. Bởi thế cho nên, cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1974 kéo theo sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Nhưng chúng ta vẫn đứng vững. Sự sụp đổ đó chỉ là sự sụp đổ của một bộ máy nhà nước mới đầu tiên đầy khuyết tật. Không giống như các học giả phương Tây nhận xét: “Việt Nam, Trung Quốc, Cu – ba, Triều Tiên chỉ là “đứa con côi cút” của chủ nghĩa Cộng sản”. Không! chúng ta phải là những đứa con “ưu tú” bởi sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin và mô hình nhà nước Soviet vào tổ chức nhà nước. Nó làm nên một văn hóa chính trị không chỉ mang tư tưởng của học thuyết Mác – Lenin mà còn mang bản sắc người Việt. Nhận thức đúng đắn, cải cách kịp thời cùng với bản chất cần cù, chịu khó, chịu đựng con người Việt Nam đã giúp nước ta vượt qua thời kỳ khó khăn đó để vững bước trên con đường hội nhập ngày nay.

Trong giai đoạn hiện nay, sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa hoàn toàn là tự nguyện, tự chủ. chúng ta đã thực sự hòa mình vào thế giới vào sự phát triển chung của nhân loại loài người. thế giới trở nên không cực. Các ngày lễ của phương Tây bắt đầu du nhập vào Việt Nam và được nhiều người hưởng ứng ví dụ như ngày: Noel, valentine… Cùng với xu thế chung, chúng ta càng ngày càng hội nhập sâu hơn với thế giới, không chỉ tiếp nhận văn hóa phương Tây và các nước lân cận, chúng ta còn đem văn hóa đến các quốc gia khác. Ở Nhật, người ta rất ưa chuộng áo dài và nón lá, ở nhiều thành phố trên thế giới, người dân thích ăn bánh  mì kiểu Việt Nam, ở Pháp món Nem, Phở được đưa vào trong từ điển ẩm thực và nhất là họ rất thích chúng. Những ngày hội văn hóa VIệt Nam ở nước ngoài đã góp phần đưa văn hóa của nước ta đến gần hơn với bè bạn quốc tế, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam, con người Việt Nam.Cùng với nhịp sống hiện đại và tiến bộ chung của khoa học công nghệ, chúng ta đã học hỏi được nhiều điều hay, điều tốt đẹp của bạn bè quốc tế. Bằng phương tiện tin học việc giao lưu văn hóa lại càng dễ dàng và phong phú. Chỉ với 1 chiếc máy tính có kết nối internet, cả thế giới dưới những đầu ngón tay của bạn!!! Đó là kho thông tin khổng lồ với nhiều loại hình văn hóa: Phim ảnh, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật từ nhiều quốc gia.
Nhiều người coi Việt Nam là “bản sao” của văn hóa Trung Hoa. Nhưng thực chất, khi nghiên cứu sâu hơn về nền văn hóa nước mình người ta thấy chúng ta chỉ là “vỏ Tàu”, “lõi Việt”. Chúng ta đã dung nạp văn hóa Trung Hoa vào văn hóa nước mình dựa trên nền tảng của văn hóa Đông Sơn với cơ tầng là văn hóa Đông – Nam Á. Một số nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng: chỉ cần bị đô hộ 300 năm dân tộc đó sẽ bị đồng hóa. Nhưng suốt 1000 đô hộ của phong kiến phương Bắc năm, người Việt vẫn là chính họ trước sức ép văn hóa từ các đế chế quân chủ TQ. Chúng ta vẫn là những người Việt đầy chịu đựng, lam lũ nhưng cũng anh dũng, anh hùng. Chúng ta đã làm nền một thế kỷ XX hào hùng, bi tráng với 2 cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhất của lịch sử, chúng ta đã đối đầu với 2 tên thực dân đầu sỏ, những con “sen đầm quốc tế” khao khát xóa tên VN trên bản đồ thế giới. Một “hội chứng Việt Nam” dành tặng cho xã hội Mỹ thế kỷ XX để cuối cùng họ nhận ra rằng “chúng ta thua Việt Nam vì không hiểu hết văn hóa Việt Nam”.

toinhotoituhao


MỘT CHIỀU HÈ LỊCH SỬ
Tác giả: Trần Đăng Khoa

Bố kể chuyện Điện Biên 
Bộ đội mình chiến thắng 
Lũ Tây bị bắt sống 
Ta giải đi từng hàng 
Tướng Đờ Cát xin hàng 
Bốt đồn đều san phẳng 
Cờ quyết chiến quyết thắng 
Tung bay trên nóc hầm 
Chiều mùng bảy tháng năm 
Một chiều hè lịch sử" 
CÔNG LAO CỦA CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ THUỘC VỀ AI? ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP HAY CỐ VẤN TRUNG HOA

Bạn còn nhớ bài thơ này. Giản dị nhưng cũng đầy hào sảng phải không ạ. Đôi khi lịch sử chỉ sợ duy nhất 1 thứ đó chính là sự lãng quên.
Một ký ức đau thương, vâng, dù là đau thương nhưng chúng ta vẫn nhớ phải không ạ. Tôi đã từng đọc 1 bài viết cho rằng chiến dịch Điện Biên là công sức của Trung Quốc?! Hãy sống trong sự trần trụi của sự thật. Đừng bao giờ tô vẽ nó, cũng đừng bóp méo nó. Cái gì tô vẽ cũng đẹp, cái bóp méo cũng xấu xí chẳng còn nguyên vẹn phải không ạ?! Bạn đang sống trong một thế giới hòa bình và chẳng hiểu tý gì về chiến tranh. Gian khổ ư, hi sinh ư? Những người lính khi xưa không sợ. Họ yên nghỉ dưới lòng đất mẹ hoặc thân xác tan tành dưới "món quà" đế quốc, thực dân - những người đến Việt Nam vì "văn minh" "khai hóa" vì "cứu dân tộc Việt Nam khỏi nạn diệt chủng của Cộng sản" - ban tặng cho. Họ sợ gì ư? Đơn giản là sợ sự lãng quên. Họ là những liệt sỹ vô danh nằm im lìm lạnh ngắt trong những nghĩa trang họ không đòi hỏi được xướng danh trên bất cứ cuộc họp cuộc hội thảo nào của các bạn bây giờ. Tuy nhiên, đừng lãng quên họ - những người một thời cầm súng bảo vệ hòa bình ngày hôm nay. Lịch sử là quá khứ đúng sai ư? Có nhất thiết phải cần những "nhà rân chủ" kia đem ra xét lại không?!


nhìn những hình ảnh này, bạn thấy sao?! Họ đã chiến đấu quật cường như thế nào. Đó là công sức của quân đội ta  nhân dân ta hay là nhờ vào "kế hoạch thịt đè người" muôn thuở của cố vấn Trung Quốc (cái mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phải hủy bỏ để thay vào đó là một kế hoạch thực sự của con  người Việt Nam.)

Thứ Tư, 6 tháng 5, 2015


Kiêu vũ với tử thần. Ở Việt Nam là chiến trường của 2 vũ đài chính trị của 2 siêu cường Mỹ và Liên Xô?! Theo bạn đó là đúng hay sai?https://www.youtube.com/watch?v=h3OrsbZV4yY
NHỮNG NGUY CƠ LỚN CỦA NƯỚC TA. 

Sau gần 30 năm đổi mới nước ta có nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa xã hội, ngoại giao... tuy nhiên đi cùng sự phát triển đó cũng có những khó khăn thách thức đối với nhà nước chúng ta. Đại hội Đảng lần thứ đã chỉ ra 4 nguy cơ lớn mà chúng ta phải đối mặt đó chính là: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng XHCN, diễn biến hòa bình và tham nhũng.
Đứng trên phương diện kinh tế, chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu mà nước ta đã có được trong suốt thời kì đổi mới GDP tăng trưởng cao hằng năm: 7,6% (2004) sau khủng hoảng kinh tế vẫn giữ đà tăng trưởng 5,42% (2012) và ước tính khoảng hơn 5,4% (2013). Nền kinh tế bị tàn phá bởi chiến tranh từng bước phục hồi và phát triển. Những nỗ lực ngoại giao giúp chúng ta gia nhập tổ chức ASEAN (1994), WTO (2010), nó mở ra những cơ hội mới đồng thời cũng là thách thức lớn cho nền kinh tế. Theo đánh giá của WB (world bank) dù tổng sản phẩm quốc nội của VN tăng ở mức cao nhưng tụt hậu về kinh tế là một điều hiển nhiên đúng. Một con số đáng ngạc nhiên là nước ta tụt hậu 51 năm so với Philippin, 95 năm so với Thái Lan, 158 năm so với Singapo. Nền kinh tế nước ta khi gia nhập tổ chức kinh tế thế giới WTO phải đương đầu với “những người khổng lồ” đến từ nước Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc các cường quốc lớn. Hơn nữa chúng ta còn quen với bao cấp, với trợ cấp của nhà nước nên sức cạnh tranh chưa cao điều này làm cho các doanh nghiệp nước ta rơi và tình trạng khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường. Muốn phát triển kinh tế để “sánh vai với các cường quốc năm châu” cần phải có các giải pháp đồng bộ. Bộ mặt nền kinh tế nước ta 70% nông nghiệp xuất khẩu gạo, cao su, café, hạt điều nhất nhì thế giới tuy vậy giá trị xuất khẩu chưa cao, mới chỉ dừng lại ở xuất khẩu thô. Như vậy muốn phát triển được nền kinh tế cần phải phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng công nghiệp hiện đại. Mục tiêu 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp khá xa vời mà thời gian thì chẳng còn bao lâu. Bởi vậy, cần phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp. Muốn đưa công nghiệp phát triển thì phải lấy KHKT làm nền tảng. Tức là nhà nước phải có những cơ chế trong việc phát triển nhân lực trình độ cao, tay nghề cao có như vậy công nghiệp nước ta mới có thể phát triển.
Nguy cơ thứ 2 không kém phần quan trọng đó chính là chệch hướng XHCN. Trên lý luận nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN tuy nhiên, trong những năm gần đây chúng ta có thể thấy rằng có những dấu hiệu của sự chệch hướng trên con đường đi lên XHCN. Sau đổi mới chúng ta tập trung phát triển kinh tế tư nhân, tiểu chủ, tư bản, tư bản nước ngoài... trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước lại yếu kém, thua lỗ. Nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần đưa nền kinh tế nước ta đang đi theo hướng khác nếu các cấp lãnh đạo không tỉnh táo để có những bước đi đúng đắn. Việc tập trung phát triển kinh tế ngoài nhà nước, tạo ra một lượng tiền lớn cho sự phát triển, tuy nhiên một câu hỏi được đặt ra cạnh tranh tự do ở nước ta có giống “tự do kiểu Mỹ” không. Điều này có nghĩa là nền kinh tế thị trường chứ không phải thả nổi cho các doanh nghiệp tự bươn trải. Nhà nước cần có những biện pháp để quản lý,phát triển nền kinh tế nhà nước, xây dựng các tập đoàn chủ chốt, củng cố các cơ quan khác. Do vậy, nền kinh tế nhà nước nhất định phải được chấn hưng.
Hiện nay, có rất nhiều thế lực thù địch âm mưu chống phá nhà nước XHCN bởi tham vọng chính trị. Một số tổ chức nước ngoài muốn đạp đổ chế độ chính trị nước ta cấu kết với các phần tử cực đoan trong nước thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đổ. Trong những năm gần đây có nhiều vụ liên quan đến diễn biến hòa bình ví dụ như: phong trào Tin lành Đề - ga (2004), giáo xứ Thái Hà (2011), Cù Huy Hà Vũ (2011)... Điều này làm ảnh hưởng lớn đến an ninh quốc gia, an ninh chính trị. Mà nguyên nhân chủ yếu là do sự kém hiểu biết của một số bộ phận quần chúng nên mới bị lợi dụng đặc biệt là bộ phận học sinh sinh viên. Hầu như các vụ biểu tình đều có sự tham gia của học sinh sinh viên. Đây chính là nguy cơ lớn, thách thức lớn đối với sự tồn vong của chế độ XHCN ảnh hưởng đến mục tiêu “dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh”Tuy nhiên nguy cơ diễn biến từ bên ngoài không nguy hiểm bằng việc tự diễn biến bên trong mỗi người .  Muốn chống lại thế lực thù địch này chúng ta cần phải cảnh giác, nâng cao nhận thức quần chúng mà hơn hết là củng cố niềm tin của quần chúng vào Đảng, nhà nước. Đồng thời nâng cao sức chiến đấu của chiến sỹ, đảng viên. Giáo dục công dân về âm mưu diễn biến hòa bình, đặc biệt là học sinh sinh viên quán triệt tư tưởng và có các tổ chức đoàn thể cho sinh viên để sinh hoạt chính trị, nâng cao hiểu biết về vấn đề nhạy cảm này.
Trong những năm gần đây người ta nói nhiều đến suy thoái đạo đức chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng XHCN... trong đó một phần nói đến nạn tham nhũng mà theo đánh giá của tổ chức minh bạch thế giới (IT) thì VN là một trong số các quốc gia tham nhũng nhiều nhất thế giới 2,7/10 (2009) đứng thứ 120/180 quốc gia xếp hạng. Vấn nạn này có ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề. Tham nhũng dưới mọi hình thức không chỉ là nhận tiền đút lót để chạy chức chạy quyền mà còn tham nhũng ở chính sách, bóp méo uốn cong các chính sách của nhà nước đề ra. Mà gần đây nhất là vụ của ông Dương Chí Dũng tham nhũng đến 10 tỉ đồng em trai ông ta là .... lợi dụng chức quyền để đưa anh ra nước ngoài trốn tội. đó đều là những hành vi tham nhũng không thể tha thứ được. Lòng dân lung lay cũng là do quan tham, mất phẩm chất đạo đức chính trị. Dựa vào điểm này, các thế lực thù địch có lý do để kích động đồng bào, quần chúng nổi dậy, có cơ sở để xuyên tạc đường lối của đảng, nhà nước. Tham nhũng giống như một cái nhọt , nếu không cắt đi sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể sống. Có rất nhiều biện pháp chống tham nhũng đã được đề ra nhưng hoạt động không có hiệu quả nào là ủy ban phòng chống tham nhũng, thanh tra chính phủ... Có lẽ điều quan trọng nhất là chúng ta cần phải có hành lang pháp lý vững chắc để xử lý, răng đe những kẻ đục khoét tiền bạc của dân. Đồng thời nên nâng cao trình độ quản lý nhà nước, cải cách hành chính...bên cạnh đó cũng phải nâng cao sức chiến đấu của Đảng viên, chiến sỹ công an.

Đảng đã chỉ ra những nguy cơ lớn mà nước ta phải đối mặt, là sinh viên là những chủ nhân của đất nước chúng ta cần hiểu rõ, và ý thức việc khắc phục để đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại sánh ngang tầm quốc tế.
Văn hóa Việt trên góc độ văn học dân gian
Tài liệu tham khảo: “tín ngưỡng và giải mã tín ngưỡng trong văn học dân gian Việt Nam” – PGS. Nguyễn Bích Hà

Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản phẩm của trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ cho cách sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
Trước hết ta có thể nhìn từ những truyền thuyết, cổ tích mà ngày thơ bé ta thường được nghe bà, mẹ kể. Có lẽ có rất nhiều bạn đã mơ những giấc mơ cổ tích thời thơ dại đó.  Giống như Nguyễn Khoa Điềm viết:  “ Mỗi chú bé đều nằm mơ cổ tích/ Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng). Các hình tượng như Lạc Long Quân – Âu Cơ, ông Đùng – bà Đà, bánh Chưng – bánh Dày, Nữ Oa – Tứ Tượng, Chử Đồng Tử - Tiên Dung… có lẽ đã in sâu vào mỗi con người, tuy nhiên nếu chúng ta để ý một chút đây chính là sự hòa hợp giữa đực – cái, vuông – tròn, trời – đất, nó chính là các mã tín ngưỡng của người Việt, luôn hướng đến sự hòa hợp của âm – dương ngũ hành. Người Việt cổ luôn giành những lời nói tốt đẹp đối với những nhân vật chính diện của mình. Họ quan cho rằng nguồn gốc của người Việt là “con Rồng cháu Tiên”.Ở Phú Thọ có đền thờ vua Hùng – người đã sáng lập ra nhà nước Âu – Lạc nhà nước đầu tiên của người Việt. Có thế mà trong dân gian chẳng biết từ bao giờ người ta nhắn nhau rằng:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giổ tổ mùng mười tháng ba”
Giới trẻ không quen với những vị thần như: Mẫu thượng ngàn, bà chúa kho, bà chúa muối, Cửu thiên huyền nữ… có câu hỏi đặt ra tại sao lại có nhiều phụ nữ được nhân dân tôn thờ đến thế? Điều này phải giải thích rằng Văn học dân gian gắn với những truyền thuyết về những con người này ra đời trong thời công xã nguyên thủy khi đó xã hội là gia tộc mẫu quyền những bà mẹ (người đứng đầu trong gia đình) có trách nhiệm chia thành quả lao động và sinh đẻ. Bởi vậy khi ấy vị thế người phụ nữ được đề cao. Đồng thời, cuộc chiến anh dũng của 2 bà Trưng đã quy tụ được rất nhiều nữ tướng tài ba. Họ ra trận với tinh thần của người con yêu nước, của lòng căm thù đế chế phương Bắc và cả sự nữ tính của mình nữa. Bởi sự hy sinh oanh liệt đó mà họ được nhân dân suy tôn làm Mẫu (tức là mẹ của thiên hạ). Nó cũng là 1 văn hóa người Việt, phụ nữ Việt.
Những vị thần như là thần hộ mệnh trong đức tin của con người Việt. Trước sự tàn khốc của thiên nhiên của cuộc sống, cái để họ hi vọng là sự phù hộ của các vị thần. Vậy nên, mỗi dịp tết đến xuân về người ta lại lên chùa cầu may, mong muốn mang được cành lộc đẹp về thờ trong những ngày đầu năm để có được sức khỏe, may mắn cho năm sau. Những nghi lễ thờ thần hoàng làng, thờ Thánh, Mẫu trở thành phong tục quen thuộc của người Việt trong cả nước. Nó bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con người với những thế lực siêu nhiên kia. Ở đây chúng ta không bàn đến việc vì sao người ta lại sùng bái thần thánh theo quan điểm triết học nhưng nếu suy luận một cách đơn giản ta có thể thấy rằng tự nhiên với con người là mối quan hệ mật thiết. Con người luôn khao khát chế ngự thiên nhiên.Vì  thiên nhiên tác động trực tiếp đến con người thế nên mới có câu:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời im bể lặng mới yên tấm lòng
Có thể thấy rằng người Việt cổ với nền văn minh lúa nước tư duy nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên cho nên họ tôn sùng tự nhiên là đúng. Sức mạnh của tự nhiên là cái mà đến bây giờ ta cũng chưa lường hết được
“Đông rắc tía tía màu hồng
Gọi con thủ thỉ bảo chồng nhỏ to
Nhà em tìm kiếm cây to
Chống nhà tránh bão chớ lo sau này”
Bởi vậy mà trước đây các đấng vua chúa đều lập đàn hằng năm cầu cho mưa thuận gió hòa.  Và chính thế con người nuôi một niềm tin vào một thế lực khác và đưa nó vào văn học dân gian như văn hóa của mình
Bàn thêm về văn hóa tín ngưỡng của người Việt, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng thần hoàng làng. Thần hoàng làng là một nhân vật có công với làng xã được người dân trong làng đó lập đền thờ miếu mạo hằng năm cúng tế để tỏ lòng biết ơn. Có thể ngày nay, do quá trình công nghiệp hóa người ta ít nhìn thấy hay ít thấy rõ những phong tục thờ cúng này. Nhưng nếu về những vùng nông thôn thì dường như làng nào cũng có đình làng, có hội làng… đó là ngày những người trong làng tỏ lòng thành kính với ông thần trông giữ làng của họ. Nó đã trở thành một văn hóa làng xã, tính cộng đồng của người Việt. Mỗi làng có một ông thánh. Thánh làng nọ có thể giống hoặc khác với làng kia. Bởi vậy mà có “thánh làng ai làng nấy thờ”.  Con người trong làng xã có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi quan điểm
“Trâu ta ăn cỏ đồng mình”
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
Người Việt cổ yêu cái làng của mình, họ gắn bó với nhau trong quan hệ họ hàng , hàng xóm, láng giềng. Trong các làng có các dòng họ, mỗi dòng họ lại có một  ông Tổ bởi những mối quan hệ phức tạp, khép kín đó khiến làng quê Việt Nam như một “tiểu vương quốc” để rồi “Phép vua thua lệ làng” để rồi giống như Nguyễn Bính từng viết
“Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Đó là:  “2 thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”
Chính cái lũy tre làng  là biểu tượng của sự khép kín, của rào cản của sự giao lưu giữa các làng. Trong tâm tưởng người Việt dù “một giọt máu đào hơn ao nước lã đó” nhưng họ vẫn cho rằng “bán anh em xa mua láng giềng gần” “làng xóm tối lửa tắt đèn có nhau” điều đó đã làm nên nét đẹp văn hóa trong quan hệ giữa người với người của dân tộc tạ. Vâng, nhà anh với nhà tôi chỉ cách nhau cái dậu mùng tơi, chỉ cách nhau hàng hàng rào dâm bụt và những “tuổi thơ dữ dội” bắt đầu từ đây, tình yêu bắt đầu từ đây…
Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về văn hóa làng xã trong văn học dân gian trong kì lần sau nhé! Sức mạnh của Làng và có phải văn hóa làng đã khiến “đèn nhà ai nhà nấy rạng”  không? Có phải văn hóa  sinh hoạt khép kín  là cái kìm hãm tinh thần đoàn kết dân tộc không?
2.
The các nhà nghiên cứu, một dân tộc sẽ bị đồng hóa khi họ bị đô hộ 300 năm. Tại sao dân tộc phương Bắc đô hộ chúng ta hàng nghìn năm (176TCN – 939SCN) mà chúng ta vẫn là “con rồng cháu tiên” vẫn là người Việt?
Sự phát triển phồn thịnh của Nho giáo khiến chúng ta và các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc…bị ảnh hường suốt mấy nghìn năm phong kiến. 1000 năm Bắc thuộc đó người phương Bắc đã dùng mọi cách để biến nước ta thành một tỉnh của họ đem văn hóa của họ sang để lu mờ văn hóa của ta nhưng sao. Họ đã thất bại. Chúng ta không những không thành châu, thành tỉnh của họ mà còn đường hoàng sánh ngang hàng với họ. Có lẽ một câu hỏi đáng được đặt ra là văn hóa chúng ta có khác gì văn hóa Trung Hoa? Có chứ! Họ và chúng ta đều là nước theo âm lịch cùng đón một ngày Tết nguyên đán, Tết Trung Thu… nhưng thử xem mỗi nơi đón Tết như thế nào? Người Trung Hoa ăn:                 vào ngày Tết còn người Việt ăn bánh chưng, bánh giày… Tết Trung thu của người Trung Hoa là ngày tết dành cho…………… còn khi nó sang VN chỉ là ngày Tết cho trẻ con. Ngày mùng 5/5 ở Trung Hoa là ngày giỗ Khuất Nguyên – một nhân vật lịch sử được tôn trọng còn khi sang VN nó là ngày “GIẾT SÂU BỌ” (phải chăng đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên?!)  1000 năm hẳn là không đủ dài để người phương Bắc biến người Nam chúng ta thành nô lệ. Họ không hiểu rằng tinh thần dân tộc nung nấu cả ngàn năm trời trong những con người áo nâu, váy đụp, răng đen ấy bỗng chốc thổi bùng lên vào năm 40 – 43 SCN với cuộc khởi nghĩa của 2 bà Trưng “Một xin …..” sau đó là khởi nghĩa bà Triệu Thị Trinh năm 270SCN gắn với truyền thuyết bà Triệu cưỡi voi ra trận. Và cháy rực trong cuộc chiến trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền và chính con sông này là nỗi nhục muôn đời của các đế chế quân chủ phương Bắc. “Sông sâu nhất là sông Bạch Đằng/ Ba lần giặc đến ba lần giặc tan”
Đây là sự kỳ diệu của lịch sử hay là sức mạnh của văn hóa? Tôi và các bạn có thể trả lời ngay rằng đó là sức mạnh của văn hóa. Một dân tộc yếu nhưng luôn nuôi trong mình một văn hóa mạnh – văn hóa làng xã – văn hóa các làng xã – văn hóa quốc gia. Trước hết ta hãy đi từ văn hóa làng xã:
Văn hóa làng xã trong cộng đồng người Việt Nam là một mối quan hệ hết sức phức tạp. Ta thử xét các mối quan hệ hiện hữu trong xã hội trong một làng: quan hệ gia tộc (bố - mẹ, anh – em, vợ - chồng), quan hệ dòng họ (cô, dì, chú, bác…) quan hệ hàng xóm – láng giềng… những quan hệ đó không phải tách bạch nhau mà chồng chéo lên nhau họ không chỉ có quan hệ họ hàng với nhau mà còn có quan hệ hàng xóm – láng giềng với nhau và ngược lại. Điều này đã làm nên những sợi dây bền chặt gắn kết những người trong làng thành một khối họ bị chi phối bởi những phong tục, phương thức sinh hoạt của một nhóm người. Từ đó hình thành nên cộng đồng nhỏ người sống khép kín với nhau.