Thứ Tư, 6 tháng 5, 2015

Văn hóa Việt trên góc độ văn học dân gian
Tài liệu tham khảo: “tín ngưỡng và giải mã tín ngưỡng trong văn học dân gian Việt Nam” – PGS. Nguyễn Bích Hà

Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản phẩm của trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ cho cách sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.
Trước hết ta có thể nhìn từ những truyền thuyết, cổ tích mà ngày thơ bé ta thường được nghe bà, mẹ kể. Có lẽ có rất nhiều bạn đã mơ những giấc mơ cổ tích thời thơ dại đó.  Giống như Nguyễn Khoa Điềm viết:  “ Mỗi chú bé đều nằm mơ cổ tích/ Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng). Các hình tượng như Lạc Long Quân – Âu Cơ, ông Đùng – bà Đà, bánh Chưng – bánh Dày, Nữ Oa – Tứ Tượng, Chử Đồng Tử - Tiên Dung… có lẽ đã in sâu vào mỗi con người, tuy nhiên nếu chúng ta để ý một chút đây chính là sự hòa hợp giữa đực – cái, vuông – tròn, trời – đất, nó chính là các mã tín ngưỡng của người Việt, luôn hướng đến sự hòa hợp của âm – dương ngũ hành. Người Việt cổ luôn giành những lời nói tốt đẹp đối với những nhân vật chính diện của mình. Họ quan cho rằng nguồn gốc của người Việt là “con Rồng cháu Tiên”.Ở Phú Thọ có đền thờ vua Hùng – người đã sáng lập ra nhà nước Âu – Lạc nhà nước đầu tiên của người Việt. Có thế mà trong dân gian chẳng biết từ bao giờ người ta nhắn nhau rằng:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giổ tổ mùng mười tháng ba”
Giới trẻ không quen với những vị thần như: Mẫu thượng ngàn, bà chúa kho, bà chúa muối, Cửu thiên huyền nữ… có câu hỏi đặt ra tại sao lại có nhiều phụ nữ được nhân dân tôn thờ đến thế? Điều này phải giải thích rằng Văn học dân gian gắn với những truyền thuyết về những con người này ra đời trong thời công xã nguyên thủy khi đó xã hội là gia tộc mẫu quyền những bà mẹ (người đứng đầu trong gia đình) có trách nhiệm chia thành quả lao động và sinh đẻ. Bởi vậy khi ấy vị thế người phụ nữ được đề cao. Đồng thời, cuộc chiến anh dũng của 2 bà Trưng đã quy tụ được rất nhiều nữ tướng tài ba. Họ ra trận với tinh thần của người con yêu nước, của lòng căm thù đế chế phương Bắc và cả sự nữ tính của mình nữa. Bởi sự hy sinh oanh liệt đó mà họ được nhân dân suy tôn làm Mẫu (tức là mẹ của thiên hạ). Nó cũng là 1 văn hóa người Việt, phụ nữ Việt.
Những vị thần như là thần hộ mệnh trong đức tin của con người Việt. Trước sự tàn khốc của thiên nhiên của cuộc sống, cái để họ hi vọng là sự phù hộ của các vị thần. Vậy nên, mỗi dịp tết đến xuân về người ta lại lên chùa cầu may, mong muốn mang được cành lộc đẹp về thờ trong những ngày đầu năm để có được sức khỏe, may mắn cho năm sau. Những nghi lễ thờ thần hoàng làng, thờ Thánh, Mẫu trở thành phong tục quen thuộc của người Việt trong cả nước. Nó bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con người với những thế lực siêu nhiên kia. Ở đây chúng ta không bàn đến việc vì sao người ta lại sùng bái thần thánh theo quan điểm triết học nhưng nếu suy luận một cách đơn giản ta có thể thấy rằng tự nhiên với con người là mối quan hệ mật thiết. Con người luôn khao khát chế ngự thiên nhiên.Vì  thiên nhiên tác động trực tiếp đến con người thế nên mới có câu:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời im bể lặng mới yên tấm lòng
Có thể thấy rằng người Việt cổ với nền văn minh lúa nước tư duy nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên cho nên họ tôn sùng tự nhiên là đúng. Sức mạnh của tự nhiên là cái mà đến bây giờ ta cũng chưa lường hết được
“Đông rắc tía tía màu hồng
Gọi con thủ thỉ bảo chồng nhỏ to
Nhà em tìm kiếm cây to
Chống nhà tránh bão chớ lo sau này”
Bởi vậy mà trước đây các đấng vua chúa đều lập đàn hằng năm cầu cho mưa thuận gió hòa.  Và chính thế con người nuôi một niềm tin vào một thế lực khác và đưa nó vào văn học dân gian như văn hóa của mình
Bàn thêm về văn hóa tín ngưỡng của người Việt, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng thần hoàng làng. Thần hoàng làng là một nhân vật có công với làng xã được người dân trong làng đó lập đền thờ miếu mạo hằng năm cúng tế để tỏ lòng biết ơn. Có thể ngày nay, do quá trình công nghiệp hóa người ta ít nhìn thấy hay ít thấy rõ những phong tục thờ cúng này. Nhưng nếu về những vùng nông thôn thì dường như làng nào cũng có đình làng, có hội làng… đó là ngày những người trong làng tỏ lòng thành kính với ông thần trông giữ làng của họ. Nó đã trở thành một văn hóa làng xã, tính cộng đồng của người Việt. Mỗi làng có một ông thánh. Thánh làng nọ có thể giống hoặc khác với làng kia. Bởi vậy mà có “thánh làng ai làng nấy thờ”.  Con người trong làng xã có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi quan điểm
“Trâu ta ăn cỏ đồng mình”
“Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
Người Việt cổ yêu cái làng của mình, họ gắn bó với nhau trong quan hệ họ hàng , hàng xóm, láng giềng. Trong các làng có các dòng họ, mỗi dòng họ lại có một  ông Tổ bởi những mối quan hệ phức tạp, khép kín đó khiến làng quê Việt Nam như một “tiểu vương quốc” để rồi “Phép vua thua lệ làng” để rồi giống như Nguyễn Bính từng viết
“Thôn đoài ngồi nhớ thôn đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Đó là:  “2 thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”
Chính cái lũy tre làng  là biểu tượng của sự khép kín, của rào cản của sự giao lưu giữa các làng. Trong tâm tưởng người Việt dù “một giọt máu đào hơn ao nước lã đó” nhưng họ vẫn cho rằng “bán anh em xa mua láng giềng gần” “làng xóm tối lửa tắt đèn có nhau” điều đó đã làm nên nét đẹp văn hóa trong quan hệ giữa người với người của dân tộc tạ. Vâng, nhà anh với nhà tôi chỉ cách nhau cái dậu mùng tơi, chỉ cách nhau hàng hàng rào dâm bụt và những “tuổi thơ dữ dội” bắt đầu từ đây, tình yêu bắt đầu từ đây…
Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về văn hóa làng xã trong văn học dân gian trong kì lần sau nhé! Sức mạnh của Làng và có phải văn hóa làng đã khiến “đèn nhà ai nhà nấy rạng”  không? Có phải văn hóa  sinh hoạt khép kín  là cái kìm hãm tinh thần đoàn kết dân tộc không?
2.
The các nhà nghiên cứu, một dân tộc sẽ bị đồng hóa khi họ bị đô hộ 300 năm. Tại sao dân tộc phương Bắc đô hộ chúng ta hàng nghìn năm (176TCN – 939SCN) mà chúng ta vẫn là “con rồng cháu tiên” vẫn là người Việt?
Sự phát triển phồn thịnh của Nho giáo khiến chúng ta và các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc…bị ảnh hường suốt mấy nghìn năm phong kiến. 1000 năm Bắc thuộc đó người phương Bắc đã dùng mọi cách để biến nước ta thành một tỉnh của họ đem văn hóa của họ sang để lu mờ văn hóa của ta nhưng sao. Họ đã thất bại. Chúng ta không những không thành châu, thành tỉnh của họ mà còn đường hoàng sánh ngang hàng với họ. Có lẽ một câu hỏi đáng được đặt ra là văn hóa chúng ta có khác gì văn hóa Trung Hoa? Có chứ! Họ và chúng ta đều là nước theo âm lịch cùng đón một ngày Tết nguyên đán, Tết Trung Thu… nhưng thử xem mỗi nơi đón Tết như thế nào? Người Trung Hoa ăn:                 vào ngày Tết còn người Việt ăn bánh chưng, bánh giày… Tết Trung thu của người Trung Hoa là ngày tết dành cho…………… còn khi nó sang VN chỉ là ngày Tết cho trẻ con. Ngày mùng 5/5 ở Trung Hoa là ngày giỗ Khuất Nguyên – một nhân vật lịch sử được tôn trọng còn khi sang VN nó là ngày “GIẾT SÂU BỌ” (phải chăng đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên?!)  1000 năm hẳn là không đủ dài để người phương Bắc biến người Nam chúng ta thành nô lệ. Họ không hiểu rằng tinh thần dân tộc nung nấu cả ngàn năm trời trong những con người áo nâu, váy đụp, răng đen ấy bỗng chốc thổi bùng lên vào năm 40 – 43 SCN với cuộc khởi nghĩa của 2 bà Trưng “Một xin …..” sau đó là khởi nghĩa bà Triệu Thị Trinh năm 270SCN gắn với truyền thuyết bà Triệu cưỡi voi ra trận. Và cháy rực trong cuộc chiến trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền và chính con sông này là nỗi nhục muôn đời của các đế chế quân chủ phương Bắc. “Sông sâu nhất là sông Bạch Đằng/ Ba lần giặc đến ba lần giặc tan”
Đây là sự kỳ diệu của lịch sử hay là sức mạnh của văn hóa? Tôi và các bạn có thể trả lời ngay rằng đó là sức mạnh của văn hóa. Một dân tộc yếu nhưng luôn nuôi trong mình một văn hóa mạnh – văn hóa làng xã – văn hóa các làng xã – văn hóa quốc gia. Trước hết ta hãy đi từ văn hóa làng xã:
Văn hóa làng xã trong cộng đồng người Việt Nam là một mối quan hệ hết sức phức tạp. Ta thử xét các mối quan hệ hiện hữu trong xã hội trong một làng: quan hệ gia tộc (bố - mẹ, anh – em, vợ - chồng), quan hệ dòng họ (cô, dì, chú, bác…) quan hệ hàng xóm – láng giềng… những quan hệ đó không phải tách bạch nhau mà chồng chéo lên nhau họ không chỉ có quan hệ họ hàng với nhau mà còn có quan hệ hàng xóm – láng giềng với nhau và ngược lại. Điều này đã làm nên những sợi dây bền chặt gắn kết những người trong làng thành một khối họ bị chi phối bởi những phong tục, phương thức sinh hoạt của một nhóm người. Từ đó hình thành nên cộng đồng nhỏ người sống khép kín với nhau.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét